22/03/2019 - Đăng bởi : hoaiangroup hoaiangroup
Tôi còn nhớ mãi lễ khai tâm của mình, cái lễ trọng của mỗi đời học trò. Ở quê tôi có tục lệ cúng khai tâm cho trẻ chuẩn bị vào lớp vỡ lòng, tức bậc mẫu giáo bây giờ. Lễ này được chọn một ngày tốt trong các tháng được tính là ngoài bụng mẹ. Ví dụ đứa trẻ ấy sinh vào mồng ba tháng mười một ta, tính ngược thời gian về trước, từ hăm ba tháng giêng đến đó là chín tháng mười ngày trong bụng mẹ. Như vậy lễ khai tâm cho trẻ đó chỉ được chọn một ngày bất kỳ trong quãng từ mồng bốn tháng mười một cho đến hăm hai tháng giêng. Tùy theo gia cảnh, mức độ tổ chức có thể linh đình hay đạm bạc nhưng thường lễ vật dâng cúng ngoài hoa quả trà rượu, nhất thiết không thiếu con gà trống tía.
Bên cạnh bà con nội ngoại, người ta thường mời cả bà mụ, người năm bảy năm trước từng đỡ cho trẻ ra đời. Và sự có mặt của ông giáo làng, người sẽ dạy vỡ lòng cho trẻ, là niềm vinh hạnh và hoan hỉ của gia đình.
Trước bàn thờ gia tiên, người ta kê thêm một cái bàn thấp hơn đặt lên đó giấy bút cho trẻ. Người cha sau khi hướng dẫn cho trẻ thực hiện các nghi lễ trang nghiêm, liền mở vở viết vào đó những lời tốt đẹp nhất hy vọng nhất. Ông đọc to lên để trẻ lặp lại vừa như cầu mong vừa là hứa hẹn. Trong đó, thường ít khi thiếu câu: “Ấu bất học lão hà vi, nhân bất học bất tri lý”.
Lễ cúng khai tâm cho tôi cũng bắt đầu như thế, theo lời cha tôi là để chuẩn bị nhập môn học chữ thánh hiền. Nó diễn ra trong một căn nhà tranh bên rìa núi, giữa một rẻo vườn đầy những loài cổ thụ thâm nghiêm, mảnh sân thân thuộc có nhiều cây hồng lựu, bạch lựu. Tuổi ấu thơ của tôi trôi qua dưới bóng rợp của xoài tượng, xoài thanh ca, dừa lửa, mít, muồng, những tàn bứa, tàn me già hàng trăm năm tuổi. Những bài học văn chương đầu tiên đến với tôi là từ bà nội tôi, cha tôi, mẹ tôi, những người chân lấm tay bùn nhưng đã thuộc làu làu các truyện thơ Nôm, từ truyện Kiều đến Lục Vân Tiên.
Viết đến đây, bỗng nhiên tôi nhớ về bà nội kính yêu của tôi, người luôn dắt về những người hiền qua các tích lớp, các truyện thơ xao động cả thôn cùng xóm vắng trong suốt quãng đời tôi còn bé dại. Những người hiền thường phải chịu đựng số phận trầm luân khác thường, tôi thấy thế và bà tôi luôn thắp trong lòng tôi ngọn lửa của triết lý dân gian: “ở hiền gặp lành”. Bây giờ dưới ba tấc đất sâu chẳng biết bà có dịp hát kể về những nhân vật mà bà hết sức trân trọng ấy hay không? Còn tôi, sau khi thắp hương lên mộ mà, tôi bỗng tự tin với ý nghĩ huyền diệu là ở rặng núi sau vườn nhà cũ, trên đỉnh cao của nó lừng lững một cái am trúc và bà tôi chỉ đường tôi đến chiêm ngưỡng họ, những người hiền giữa chốn khói mây.
Chủ nhân của cái am trúc đó là vị trích tiên, bầu bạn với bầy thú rừng chuyên đi hái những hoa thơm quả lạ về cho chàng cất những mẻ rượu ngọt, bày bình ngà chén ngọc ra đón khách tri âm. Trong cuộc hội ngộ cảm động đến nghẹn ngào, tôi thấy không thiếu mặt những Thạch Sanh, Từ Hải, Chàng Lía, và họ nhường nhau chỗ ngồi, hỏi han nhau bằng những lời lẽ thấm thía của các kiệt hiệt. Dù trong đời, kẻ cuối cùng được trọn vẹn, người dở dang đứt gánh, nhưng có hề chi, xưa nay người ta vốn không luận suy từ việc thành bại như dân gian đã đúc kết “Ở đời muôn sự của chung - Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi”. Bởi vậy họ không phải đem đến nơi này niềm hả hê hay nỗi phẫn hận, mà chỉ nương nhờ chút bóng mát vô thường để tĩnh tâm suy ngẫm về lẽ đời.
Đức Khổng Tử là bậc thánh nhân liệt hạng vạn thế sư biểu, cả đời xông pha trăm châu ngàn quận, truyền đạo làm người từ vua quan chí thảo dân, cũng phải thốt lên: “Vi nhân nan, vi nhân nan!”. Ôi sự nếm trải và giác ngộ mới cao quý làm sao và bây giờ, trên chiếu rượu mẫn tuệ kia, những anh hùng hảo hớn đang đàm thuyết về những bài học làm người đã qua được hun đúc từ máu lệ của đời họ. Những bài học vượt sóng gió thời gian, lại được tôn vinh trên môi những ngôi sao từng lăn lóc giữa trần ai, khiến tôi được tận hưởng đến chân tơ kẽ tóc ý nghĩa của nó.
Cõi nhân gian đầy ắp những dự tính và ước nguyện, lại không tránh khỏi những lẽ thường tình là nỗi giằng xé của cuộc mưu sinh, sự níu kéo của những phù hoa, từng nơi từng lúc có thể cái uyên minh thâm viễn bị thiệt thòi trước cái nông nổi nhất thời. Biết làm thế nào được, hãy cứ nhủ mình gắng gỏi khiêm cung. Hơn lúc nào hết, tôi mới thấy cấp thiết làm sao sự bảo trọng những giá trị hoàn mỹ của cuộc đời, bên cạnh cái đã hiển hiện, có cái còn khuất lấp đâu đó giữa hà sa lầm bụi. Mông lung lắm nên cần tâm thành, gian khổ lắm nên cần chí nguyện.
Chủ nhân của cái am trúc là ai? Đó là một con người siêu quần ở cả phương diện bút nghiên lẫn cung kiếm, nói theo người xưa là văn võ kiêm toàn. Cuộc luân lạc của chàng tôi đã từng hồi hộp, sự nghĩa hiệp của chàng tôi từng rỏ nước mắt, cuộc đèn sách của chàng cũng từng đổ bóng xuống giấc mộng của tôi. Đến nỗi, có lần trong đêm không trăng sao nơi vườn nhà tuổi thơ bên rìa núi rừng hoang vắng, nghe tiếng xao động trên đỉnh trời vang vọng về mạch đất, khẽ lắm nhưng rõ lắm, tôi tưởng tượng ra tiếng vó ngựa phiêu bồng trong vắt của chàng. Người ấy, bà tôi đã từng diễn giải qua một giọng kể ngâm khi trầm buồn, khi sôi nổi, chỉ có điều trong đầu óc nông nổi của mình, lúc đó tôi mới chỉ hình dung hào quang của một “Vân Tiên đầu đội kim khôi - tay cầm siêu bạc mình ngồi ngựa ô”. Đến giờ, tôi mới có dịp thấu triệt những vẻ đẹp khác của một con người vừa bao la vừa gần gũi, vừa nghiêm cẩn vừa khoan dung. Chàng không có tuổi, không thể gọi là già vì vầng trán đĩnh ngộ ấy luôn phát lộ những ý tưởng thanh xuân đến rực rỡ, không thể gọi là trẻ vì gương mặt ấy chất chứa sự dầu dãi đến độ lịch duyệt, chỉ có ở những người đi tới tận cùng bề dày năm tháng phong ba. Cái vĩ đại là ở chỗ người ấy hiểu đời như một tiên ông và sống với đời như một con người.
Tôi vẫn hằng nghĩ rằng nếu mai sau được tái sinh ra cuộc đời thứ hai và cuộc đời ấy có quyền chọn lựa nơi chôn nhau cắt rốn của mình, tôi vẫn chọn chính rẻo đất cố hương - cái thôn nhỏ bên rìa núi có tên gọi Long Quang - một thôn nhỏ như bao thôn nhỏ ở miền Trung nước Việt, nghèo khổ, chân chất, ấp áp nghĩa tình.
Thật lạ lùng là suốt ba chục năm xa quê, mỗi lúc nhớ nhà tôi có thể nhắm mắt nghe một mùi thảo dã đến thật gần, ngọn khói ấm nóng tỏa bình lặng trện nếp tranh chiều, bóng dáng những người thân thuộc cũ giữa cánh đồng, trong hẻm núi, ngoài bãi sông. Ờ nhỉ, sim mua đã tím đến thao thiết trên những ngọn đồi lô xô. Tiếng nai kêu. Ánh sao chiều. Và gió. Tôi đã nghe cả tiếng của những cánh hoa khế khẽ khàng rơi xuống mặt ao và bên cạnh đó, đám bạn bè thơ ấu của tôi xưa đang hun cỏ khô để vùi khoai hoặc nướng những con cua đồng. Kỳ diệu thay là cái vị quê, cái thú quê, cái mà suốt quãng đời thành thị tôi vẫn luôn hồi tưởng để thương nhớ bồi hồi. Có lần tôi đưa con tôi đến trường, con tôi đòi mua quà trước cổng. Tôi rảo mắt khắp các hàng quán bánh kẹo lòe loẹt, bất chợt sững người trước một gánh trái sim. Nhìn gánh sim tội nghiệp giữa lòng thành phố, tôi như gặp lại những đồng hương thuở quần đùi áo vá rong ruổi trên các sườn đồi quê. Đêm đó tôi trở về nhà thức trắng và một bài thơ nhỏ ra đời có tên là Sim trên hè phố: “Sim ơi còn nhớ ta không - Xưa ta và bạn sống trong thung đồi - Sau cơn lăn lóc vô hồi - Bây giờ gặp lại ở nơi thị thành - Ta còn tí đỉnh tóc xanh - Bạn còn chút ít ngọt lành mà thôi - Nép bên hồng tía chợ trời - Cúi đầu trước những tiếng cười chê khen - Ngoảnh về non lặng suối hiền - Thương cây nhớ cội đã biền biệt xa - Mai này cát bụi nhập nhòa - Biết ai còn nhận ai là cố tri.”
Tôi có ý định viết một cuốn sách nho nhỏ về tuổi thơ của mình. Một ý định có thể nói là như nước và như lửa. Lúc thì nó thủ thỉ trong hồn, trong trẻo, róc rách. Lúc thì nó cháy bỏng trong tim, nồng đượm, lan tỏa. Và tôi động bút. Nhớ quá, thương quá mà viết. Không viết không chịu được. Viết ở nhà, trong đêm tĩnh lặng. Viết ở cơ quan, nơi ồn ã sự vụ. Viết trên tầu xe, trên máy bay những chuyến công tác. Viết cả trong một số cuộc họp mà thông thường trách nhiệm của mình không ngoài việc bắt tay và vỗ tay.
Thú thật, trong nghiệp văn tôi vốn sợ cái sự nói trước bước không tới. Những đồng ngũ của tôi thỉnh thoảng có người khoa chân múa tay trong cuộc trà rượu vẽ những đề cương hay phác thảo. Người nghe đa số phải chịu trận, ậm ừ cho qua chuyện. Lại có người nổi máu “nâng đỡ tài năng”, vỗ đùi phán bằng các từ xủng xoảng “hết ý, trên mức tuyệt vời!”.
Người cầm bút, đôi khi thường nương tựa ở những lời khen đại loại như vậy. Họ phương trưởng ở chỗ ấy mà cũng tàn lụi ở chỗ ấy. Thôi thì viết đến đâu hay đến đó, bình tĩnh mà công bố, tôi tỉnh táo nhủ lòng như vậy. Ấy thế mà rồi cũng không ai nắm tay cho đến sáng, tôi trót dại nói huỵch toẹt dự định sáng tác ấy của mình. Chính miệng mình (với giọng “xứ nẫu”, giọng Hoài Ân Bình Định đặc sệt) phát đi trên làn sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam. Thêm nữa lời tóm tắt cuốn sách còn nằm hoành tráng trong bài trả lời phỏng vấn trước thềm Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ VI. Bên cạnh đó là cái ảnh chân dung của tôi (xanh đỏ tím vàng chứ không phải đen trắng) đình huỳnh xuất hiện trên một tờ báo lớn. Bạn bè tôi - bạn ở trường làng ngày xưa và bạn đồng nghiệp bây giờ - gọi điện, viết thư hoặc nhắn lời chúc mừng, chờ đợi.
Tết, tôi về quê, những người thân trong gia đình tôi đều có biết cái dự định ấy. Cha tôi không nói gì, mẹ tôi cũng lặng lẽ như vậy nhưng nhìn ánh mắt, tôi biết là niềm tin yêu thấm đượm đến dường nào. Ánh mắt ấy thao thiết dõi theo tôi, giọt lệ âu lo xa xót khi tôi vấp ngã và giọt lệ hân hoan khi tôi được có chút đỉnh thành công. Trên đường đời, từng nơi từng lúc tôi hay nghĩ về mái tranh hiền mảnh sân nhỏ ngày xưa, nơi tôi từng bước chập chững tập đi, nơi tôi đọc những câu thơ đầu tiên dưới ánh mắt nhân từ của cha mẹ tôi.
Tôi tự giục mình về cuốn sách của tuổi thơ ở đồng quê, tuổi thơ gắn với một chặng đường chiến tranh máu lửa những năm sáu mươi của thế kỷ trước ở đất Hoài Ân. Từ một chú bé con áo vá cơm độn ngồi trên quang gánh của mẹ thời loạn lạc đến cái hình hài của bây giờ, bùn đất Hoài Ân đấy chứ, rau cỏ Hoài Ân đấy chứ, mây trời non nước Hoài Ân đấy chứ. Thời bom đạn đã lùi xa, thuở áo tơi nón lá trên bờ ruộng mấp mô lặn vào ký ức, tôi tự nhủ hãy chân thành móc lấy quả tim thơ trẻ của mình mà đặt trên lòng tay những người mình thương mến. Không cần trau trua hoa mỹ, chỉ lặng lẽ quỳ xuống nâng thật cao cuốn sách của đời mình: “Thưa mẹ, con đây !”.
Nguyễn Thanh Mừng - Năm 2006