Khoa bảng Hoài Ân dưới triều Nguyễn

24/03/2019 - Đăng bởi : hoaiangroup hoaiangroup

Người Hoài Ân từ bao đời nay luôn có truyền thống hiếu học, được kế thừa và phát huy từ xưa đến nay. Nhiều thế hệ trẻ Hoài Ân tiếp bước cha anh làm rạng danh quê nhà thông qua khoa cử và đỗ đạc cao.

Nhân dịp về thăm di tích Văn Chỉ Hoài Ân, chúng tôi xin giới thiệu đến quý bạn đọc những nhà khoa bảng triều Nguyễn. “Ôn cố tri tân” để không quên đi những giá trị mà cha ông đã gây dựng nên trên mảnh đất này, họ là những tấm gương hiếu học mà con cháu bao đời sau phải noi gương tiếp bước.

Nhà bia vinh danh ở Văn Chỉ

Triều Nguyễn có 5.232 khoa bảng, riêng khoa bảng Bình Định có 244 người. Trong đó có 5 Tiến sĩ (Lê Văn Chân - Phù Mỹ, Trần Văn Chánh - Hoài Ân, Ngô Văn Hiện - An Nhơn, Ngô Tòng Nho - Tuy Phước, Hồ Sĩ Tạo - An Nhơn), có 3 phó bảng và 14 thủ khoa cử nhân.

Hoài Ân có 18 nhà khoa bảng, trong đó có 1 Tiến sĩ (Trần Văn Chánh) và 3 thủ khoa cử nhân (Trần Văn Chánh, Lê Truân, Lê Trinh Thoại). Cụ thể:

  1. Cụ Hồ Văn Nghĩa

Cụ Hồ Văn Nghĩa sinh ra và lớn lên ở xã Vĩnh Phước huyện Bồng Sơn (nay là thôn Vĩnh Viễn, xã Ân Tường Đông, làm quan chức Tham tri. Ông khai khoa ở Bình Định, đỗ cử nhân hàng 14/16, ân khoa Tân Tỵ - Minh Mạng thứ 2 (1821) tại trường thi Gia Định. Ông là người đề xướng và chủ trì xây dựng Văn Chỉ phủ Hoài Nhơn năm 1867 và là Chỉ trưởng đầu tiên của Văn Chỉ.

  1. Cụ Nguyễn Đức Vĩnh

Quê ông ở xã Vạn Trung (nay là thôn Vạn Trung, xã Ân Hảo Tây). Ông đỗ cử nhân hàng 7/10, khoa thi năm Ất Dậu - Minh Mạng thứ 6 (1825) tại trường thi thừa thiên. Ông làm quan chức Tham tri.

  1. Cụ Trần Văn Chánh

Ông quê ở xã Lân Chiểu (nay là thôn Linh Chiểu, xã Ân Phong). Ông đỗ thủ khoa cử nhân, khoa thi năm Canh Tý - Minh Mạng thứ 21 (1840) tại trường thi Thừa Thiên.

Năm Nhâm Dần (1842), năm Thiệu Trị thứ 2, ông tham dự khoa thi Hội và đỗ tiến sĩ, lúc 22 tuổi, ông làm quan chức Tri phủ.

  1. Cụ Trần Văn Quang

Ông quê ở xã Lân Chiểu (nay là thôn Linh Chiểu, xã Ân Phong), là em ruột của Tiến sĩ Trần Văn Chánh. Ông đỗ cử nhân hàng 4/38, ân khoa Nhâm Dần (1842) năm Thiệu Trị thứ 2 tại trường thi Thừa Thiên. Ông làm quan chức Ngự sử.

  1. Cụ Trần Văn Thiều

Ông quê ở xã An Thường (nay là thôn An Thường, xã Ân Thạnh). Ông đỗ cử nhân hàng 44/46, khoa thi năm Bính Ngọ - Thiệu Trị thứ 6 (1846) tại trường thi Thừa Thiên.

Ông là người được trọng dụng, giữ nhiều chức quan: ông làm quan từ Tự Đức năm đầu (1848), trải qua các chức quan: Tham tri Bộ Lại, Tả đô Ngự sử, Hành tẩu bộ Lại, Huấn đạo, Tri huyện, Tri phủ, Án sát Ngệ An, Bố chánh Ninh Bình, Tổng đốc Nam Định, Tuấn phủ Quãng Ngãi.

Năm 1870 -1873 ông xây chùa Quan Âm tại thôn An Thường, đến năm 1878 ông được vua Tự Đức cử về Nha Kinh lý An Khê cùng phụ tá là Phan Văn Điền bố chánh Bình Định khẩn hoang lập ấp tạo nên quận An Túc trước kia, nay là huyện An Khê, tỉnh Gia Lai.

  1. Cụ Trần Như Khuê

Ông quê ở xã Lân Chiểu (nay là thôn Linh Chiểu, xã Ân Phong), đỗ cử nhân hàng 7/52, ân khoa Mậu Thân - Tự Đức thứ 1 (1848) tại trường thi Thừa Thiên. Ông làm quan chức Tri huyện.

  1. Cụ Nguyễn Tư Nghiêm

Ông quê xã Hội Tỉnh (thôn Hội Tỉnh, xã Ân Hữu), đỗ cử nhân hàng thứ 7/13, khoa thi năm Nhâm Tý - Tự Đức thứ 5 (1852) tại trường thi Bình Định.

  1. Cụ Nguyễn Thành Chiêu

Ông quê ở xã Hội Yên (nay thôn Hội An, xã Ân Thạnh), đỗ cử nhân 4/13, khoa thi năm Mậu Ngọ - năm Tự Đức thứ 11 (1858) tại trường thi Bình Định.

  1. Cụ Phan Đức Trạch

Ông quê ở xã An Hội (nay thôn An Hậu, xã Ân Phong), đỗ cử nhân hàng thứ 16/28, khoa thi năm Giáp Tý - năm Tự Đức thứ 17 (1864) tại trường thi Thừa Thiên.

  1. Cụ Võ Đình Phương

Ông quê ở xã Tân Thạnh (nay là thôn Tân Thạnh, xã Ân Tường Tây), đỗ cử nhân hàng thứ 3/15, khoa thi năm Mậu Thìn - Tự Đức thứ 21 (1868) tại trường thi Bình Định. Ông cùng với ông Đào Tấn lạm Hiệu thư trong Nội các Triều nhà Nguyễn, về sau tùng vong cùng Vua Hàm Nghi và rồi biệt tích.

  1. Cụ Lê Hữu Khải

Ông ở xã Phú Nhuận (thôn Phú Thuận, xã Ân Đức), đỗ cử nhân hàng thứ 11/16, khoa thi năm Canh Ngọ - Tự Đức thứ 23 (1870) tại trường thi Bình Định.

  1. Cụ Trần Trung

Ông ở xã Đức Long (thôn Đức Long, xã Ân Đức), đỗ cử nhân hàng thứ 6/12, khoa thi năm Bính Tý - năm Tự Đức thứ 29 (1876) tại trường thi Bình Định.

  1. Cụ Huỳnh Dĩnh

Ông quê ở xã Lân Tường (nay là thôn trí Tường, xa Ân Tường Đông), đỗ cử nhân hàng thứ 14/18, ân khoa năm Giáp Thân - Kiến Phước thứ 1 (1884) tại trường thi Bình Định.

  1. Cụ Lê Truân

Ông người ở xã Thanh Lương (nay là thôn Thanh Lương, xã Ân Tín), đỗ thủ khoa Cử nhân, khoa thi Thành Thái thứ 18 (1906), lúc ông mới 23 tuổi.

  1. Cụ Lê Trinh Thoại

Ông quê ở xã Kim Sơn (nay là thôn Kim Sơn, xã Ân Nghĩa), đỗ thủ khoa Cử nhân khoa thi năm Kỷ Dậu - Duy Tân thứ 3 (năm 1909) tại trường thi Bình Định. Ông đỗ năm 44 tuổi.

  1. Cụ Lê Giảng

Ông quê ở xã Lân Chiểu (nay là thôn Linh Chiểu, xã Ân Phong), đỗ cử nhân khoa thi năm Nhâm Tý - Duy Tân thứ 6 (1912) tại trường thi Bình Định, lúc ông 29 tuổi.

  1. Cụ Huỳnh Xước

Ông sinh vào năm 1885 mất vào năm 1956, quê tại xã Đức Long (thôn Đức Long, xã Ân Đức). Ông đỗ cử nhân khoa thi năm Ất Mão - Duy Tân thứ 9 (1915) tại trường thi Bình Định.

  1. Cụ Nguyễn Thạc

Ông quê ở xã Châu Sơn (nay là thôn Châu Sơn, xã Ân Hảo Tây), đỗ cử nhân khoa thi năm Ất Mão (1915) - Duy Tân thứ 9 tại trường thi Bình Định năm 32 tuổi.

Các khoa bản trên cùng 18 khoa bảng người Hoài Nhơn, hiện nay được Văn Chỉ Hoài Ân khắc bia để thờ cúng, vinh danh và hương khói.

Trần Đình Định tổng hợp

Viết bình luận

Bình luận của bạn sẽ được duyệt trước khi đăng lên
Back to top